https://muaxegiatot.com/thu-mua-xe-oto-cu
Có một điều thú vị là chiếc xe đầu tiên của dòng Camry lại không mang cái tên này. Lịch sử của nó khởi đầu với Toyota Celica.
Mẫu xe Camry đời đầu
Mẫu xe Camry đời đầu
Vào tháng 1/1980, cái tên Camry mới được giới thiệu để chỉ phiên bản xe 4 cửa thuộc thế hệ thứ 2 của Celica (ảnh trên). Tuy nhiên chiếc xe này chỉ giống Celica về chi tiết máy móc, thậm chí thân xe cũng vay mượn từ Carina. Do đó, Celica chỉ được xem như người tiền nhiệm của dây chuyền sản xuất xe Toyota Camry. Dòng xe chính thức ra đời vào tháng 3/1982, khi tung ra thiết kế riêng với khuôn mẫu động cơ trước-cầu trước.
 
1983 Camry 1.8 GLLúc này thị trường Anh quốc vẫn chưa biết đến Camry cho đến giữa năm 1983, khi hãng xe tung ra một phiên bản độc lập với một vài thay đổi nhỏ. Phiên bản 1.8GL (ảnh trên) với thân xe theo kiểu 4 cửa truyền thống, tác động một cách khiêm tốn vào thị trường châu Âu. Đầu năm 1984, mẫu động cơ Diesel 1.8L 1C-TL trang bị Turbo được tung ra để bổ sung cho dòng sản phẩm. Mặc dù được đánh giá cao khi kết hợp giữa vận hành, độ bền và tính kinh tế, doanh thu vẫn không như mong đợi. 
 
Để khắc phục điều này, Toyota đã đưa ra một quyết định bất thường khi đưa Camry lên phân khúc cao hơn bằng cách tập trung vào công suất và cấu hình xe. Động cơ 1.8L được thay thế bằng động cơ 2.0L 2S-EL phun xăng hiện đại, công suất 107 mã lực và một phiên bản khác có mức công suất cao hơn 14%, momen xoắn khỏe hơn 13% và thời gian từ 0-60km/h nhanh hơn 0.5s (Ảnh dưới). Cả 2 phiên bản Diesel đều được trang bị hộp số sàn 5 cấp tiêu chuẩn trong khi mẫu chạy xăng lắp hộp số 3 cấp tự động. 
01
Vào tháng 11/1984, thị trường Anh quốc tăng trưởng mạnh với thế hệ xe cao cấp (ảnh dưới). Về mặt kĩ thuật, chiếc xe này giống hệt mẫu Camry GLi chạy xăng, bổ sung thêm chức năng rửa đèn xe, thừa hưởng hệ thống điều hòa của Celica Supra, giá chỉ từ 9000 bảng Anh, hiếm có chiếc xe nào đánh bại chiếc xe ở mức giá như vậy.
Thế hệ thứ 2 của Camry
Thế hệ thứ 2 của Camry
Những nỗ lực cải thiện chất lượng và giá trị của mẫu xe nổi tiếng mang thương hiệu Toyota này cuối cùng đã được công nhận khắp thế giới. Chỉ riêng năm 1985 đã có tổng cộng 252,950 chiếc Camry xuất xưởng ở Nhật Bản và một nửa trong số đó đã nhắm đến một thị trường đang mở rộng mạnh mẽ – Hoa Kì.
 
Thế hệ thứ 2 của Camry đến Anh Quốc vào tháng 1/1987 với những thay đổi gần như hoàn toàn để đáp ứng nhu cầu bùng nổ vào những năm 90s. Những chiếc xe này có giá từ 10,390 – 11,900 bảng Anh. Dài hơn và rộng hơn các thiết kế trước đây, tuy nhiên vẫn giữ nguyên chiều dài cơ sở. những thay đổi ở thân xe cho thấy Toyota đã có sự quan tâm đáng kể đến thiết kế khí động học, làm chiếc xe có độ cản gió thấp, chỉ 0.35 Cd. Chiếc xe được thiết kế bóng bẩy, với những góc cạnh được bo tròn, rất hài hòa với phần thân mà ít ảnh hưởng đến sự ổn định của xe. Lần đầu tiên dòng Camry có một mẫu có khả năng mở rộng thể tích cốp xe. Về không gian, Toyota mở rộng khoang hành khách về phía trước một chút và tăng thêm khoảng cách từ bánh xe đến đầu và đuôi xe. Từ đó cho phép Toyota có thể tận dụng tốt hơn cách bố trí theo hệ truyền động bánh trước. Do đó, cốp xe mở rộng hơn 8% trong khi không cần phải hy sinh không gian của khoang hành khách.
 
Với thị trường Anh quốc, Toyota trở về với thiết kế động cơ ban đầu, dung tích 2.5L, chạy xăng, cam kép, 4 van mỗi xi-lanh với 2 lựa chọn: số tay 5 cấp hoặc số tự động 4 cấp. Là nhà sản xuất động cơ đa van lớn và nhiều kinh nghiệm nhất thời bấy giờ, Toyota tận dụng khả năng chuyên môn của mình để tạo nên động cơ 4 van đầu tiên được tinh chỉnh tăng tối đa momen xoắn thay vì công suất. Tuy nhiên, dù đã dự tính trước, mẫu động cơ S mới vẫn tạo nhiều công suất và cải thiện khả năng lái tại dải vòng tua lớn hơn mẫu 2S-EL cũ. Mẫu Camry GLi đạt tốc độ tối đa 200km/h cũng như lên 96km trong 9.2s, và xe chạy cũng khá tiết kiệm, 7.84L/100km trong nội ô và 4.9L/100km khi duy trì ổn định ở tốc độ 90km/h.
 
Mức cấu hình rất phong phú. Cả hai dòng GLi và Gli cao cấp đều có tính năng cửa sổ trời chỉnh điện lớn hơn 10% so với tiêu chuẩn thông thường. Dòng cao cấp còn tạo sự khác biệt với điều hòa nhiệt độ, ga tự động và mâm xe hợp kim.
1987 Camry 2.0 GLi
Ban đầu Toyota chỉ ước tính doanh số mỗi năm sẽ đạt khoảng 3500 chiếc Camry thế hệ thứ 2 nhưng một bất ngờ đã đến: có tới 4117 đơn đặt hàng, chỉ riêng tại thị trường Anh quốc. Thừa thắng xông lên, Toyota tiếp tục “tạo sóng” với mẫu Camry 2 cầu (ảnh trên) vào tháng 3/1988. Ra mắt cùng ngày với Celica ST165, Toyota dự đoán mẫu Camry mới này (mức giá 16,695 bảng Anh) sẽ chiếm 10% doanh số dòng xe.
02
Với vẻ ngoài hoàn toàn giống phiên bản cao cấp, bản 2 cầu khác biệt với huy hiệu trên lưới tản nhiệt và nắp khoang hành lí, và khoảng cách 2 bánh sau hẹp hơn 10 mm. Bên dưới, động cơ 3S-FE sử dụng cơ chế truyền động tương tự ST165, với hộp số, bộ vi sai trung tâm và cò chuyển số mang đến cho chiếc xe cơ chế lái 2 cầu toàn thời gian mà không ảnh hưởng đến không gian nội thất (hình trên). Bộ khớp thủy lực (ảnh dưới) trong bộ vi sai trung tâm chia momen xoắn giữa 2 trục bánh trước-sau theo tỉ lệ 50/50.
03
Trong giai đoạn sau này, doanh số Camry vẫn đều đặn 3500 chiếc/ năm. Tính đến tháng 3/1989, doanh số đã lập kỉ lục với 7,773 chiếc ở thị trường Anh quốc, khi Toyota đã thêm thắt một vài chi tiết phức tạp để cho ra đời mẫu xe hạng cao cấp trong phân khúc.
1989 Camry V6 GXi
Mẫu Camry V6 GXi (ảnh trên) là chiếc xe đầu tiên trên thế giới có cấu tạo động cơ V6 Cam tứ, 24 van, truyền động bánh trước. Động cơ mới 2VZ-FE 2.5L tạo ra công suất 158 mã lực và chỉ “cặp” với hộp số 4 cấp tự động điện tử A540E. Đây là mẫu xe thứ 3 của Toyota lắp đặt bộ lọc khí thải (2 chiếc còn lại là Celica GT-4 và Supra Turbo), do đó chỉ chạy với nhiên liệu không chì. Toyota đã thành công khi tạo ra sự khác biệt với các hãng xe khác ở Anh quốc.
 
Vào cuối năm 1990, tổng cộng đã có 2,175,270 chiếc xe Toyota Camry được sản xuất ở 2 địa điểm: nhà máy Tsutsumi của Toyota và nhà máy mới Kentucky ở Hoa Kì. Trong số xe được sản xuất, đã có 240,901 chiếc cung ứng cho thị trường châu Âu từ năm 1983. 
Mẫu xe Camry thế hệ thứ 3
Mẫu xe Camry thế hệ thứ 3
Mẫu Camry thế hệ thứ 3 (ảnh trên), ra mắt thị trường Anh quốc vào tháng 10/1991. Đây là một chiếc xe “lột xác” hoàn toàn, không có bất cứ bộ phần nào thừa hưởng từ mẫu trước. Trừ chiều cao thì chiếc xe được mở rộng về mọi mặt, thân xe và khoang động cơ rộng hơn được thiết kế đặc biệt cho thị trường nước ngoài. Nói cách khác, đây không phải là một phiên bản được “Tây hóa” của mẫu xe ở thị trường Nhật Bản.
 
Camry đã được lắp đặt 2 loại động cơ là 5S-FE 2.2L 4 xi-lanh với 134 mã lực hoặc động cơ V6 3VZ-FE 3.0L 185 mã lực. Giá giao động từ 17,519 bảng đối với mẫu 2.2GL số sàn đến 22,325 đối với mẫu V6 số tự động.
 
Ngược lại với phong cách 2 khoang (tính chung khoang hành khách – hành lí) từ phiên bản trước, Camry mới có tổng thể thuôn dài, rộng phần trung tâm để nhấn mạnh trọng tâm xe đặt thấp. Kiểu dáng mượt mà đã giảm mức cản gió xuống còn 0.31 Cd. Trong khi đó, không gian của khoang hành khách và hành lý được mở rộng và tư thế ngồi được cải thiện đáng kể khi đặt bảng điều khiển điều hòa và âm thanh gần ghế lái hơn.
 
Tháng 7/1992, dòng Camry có thêm một mẫu xe đẳng cấp nữa. Đó là mẫu xe dành riêng cho thị trường Hoa Kì và cũng là mẫu duy nhất Toyota thiết kế theo phong cách Mỹ với ghế lái nằm bên phải. Được thiết kế theo kiểu xe 7 chỗ, mẫu xe cao cấp này có 2 ghế ngồi sau có thể gập lại khi không sử dụng. Khi đó khoang hành lí mở rộng thể tích lên đến 843 lít. Một tính năng nổi bật khác của chiếc xe là gạt nước sau thiết kế dạng kép.
 
Camry tiếp tục được công nhận như là tiêu chuẩn của ngành cũng như giá trị tốt nhất xét về giá cả. Một mẫu xe công ty ra đời, nhấn mạnh đến giá bán lẻ hơn loại xe gắn động cơ 2.2L dành riêng cho người dùng doanh nhân. Tuy nhiên, thị trường xe cao cấp có dấu hiệu chững lại, doanh thu Camry cũng tương tự. Cho đến năm 1995, doanh số tụt giảm xuống còn 735 chiếc mỗi năm.